Phần lớn các loài động vật đều dựa vào tinh trùng để thụ tinh.
Một số loài ruồi giấm tạo ra tinh trùng lớn nhất được biết đến trong tự nhiên. Drosophila melanogaster tạo ra tinh trùng có thể lên tới 1,8 mm, trong khi loài Drosophila bifurca họ hàng của nó tạo ra tinh trùng lớn nhất được biết đến, có chiều dài hơn 58 mm. Trong Drosophila melanogaster, toàn bộ tinh trùng, bao gồm cả đuôi, được đưa vào tế bào chất của tế bào trứng, tuy nhiên, đối với Drosophila bifurca chỉ một phần nhỏ của đuôi đi vào tế bào trứng.
Chuột gỗ Apodemus sylvaticus sở hữu tinh trùng với hình thái falciform. Một đặc điểm khác làm cho các giao tử này trở nên độc đáo là sự hiện diện của một cái móc trên đỉnh tinh trùng. Móc này được sử dụng để gắn vào móc hoặc vào cột cờ của các tinh trùng khác. Tập hợp tinh trùng được tạo ra bởi các kết nối này và kết quả là một chuỗi tinh trùng di động. Những chuỗi tinh trùng này cung cấp khả năng vận động được cải thiện trong đường sinh sản nữ và là một phương tiện giúp thúc đẩy sự thụ tinh.
Giai đoạn hậu sinh của chuột sinh tinh rất nhạy cảm với các tác nhân gây độc môi trường, bởi vì các tế bào mầm nam hình thành tinh trùng trưởng thành, chúng dần dần mất khả năng sửa chữa tổn thương DNA. Việc chiếu xạ chuột đực trong quá trình sinh tinh muộn có thể gây ra thiệt hại kéo dài ít nhất 7 ngày trong quá trình thụ tinh của tinh trùng và làm gián đoạn quá trình sửa chữa đứt gãy sợi DNA của mẹ làm tăng quang sai nhiễm sắc thể có nguồn gốc từ tinh trùng. Điều trị chuột đực bằng melphalan, một tác nhân kiềm hóa thường được sử dụng trong hóa trị liệu, gây ra các tổn thương DNA trong quá trình phân bào có thể tồn tại ở trạng thái chưa được sửa chữa khi các tế bào mầm tiến triển mặc dù các giai đoạn có khả năng sửa chữa DNA của sự phát triển của tinh trùng. Những tổn thương DNA không được sửa chữa như vậy trong tinh trùng, sau khi thụ tinh, có thể dẫn đến con cái có nhiều bất thường khác nhau.
Nhím biển như Arbacia punculata là những sinh vật lý tưởng để sử dụng trong nghiên cứu tinh trùng, chúng sinh ra một số lượng lớn tinh trùng xuống biển, khiến chúng thích hợp làm sinh vật mẫu cho các thí nghiệm. [Cần dẫn nguồn]
Các tinh trùng của thú có túi thường dài hơn so với các động vật có vú với nhau thai.
Tinh trùng là tế bào sinh sản của nam, mỗi tinh trùng có kích thước 65-70 µm. Tinh trùng người gồm có đầu, thân và đuôi. Đầu tinh trùng chứa nhân tế bào và chỉ có một lớp bào tương mỏng và màng tế bào bao quanh bề mặt.Phía trước đầu tinh trùng có một lớp dày lên gọi là cực đầu, cực đầu chứa nhiều loại enzyme khác nhau và những enzyme này có một vai trò quan trọng trong quá trình thụ tinh. Đuôi tinh trùng được chia thành các phần cổ, phần giữa, phần chính và phần cuối. Phần giữa của tinh trùng chứa cá ty thể sắp xếp theo hình xoắn ốc, chúng có vai trò quan trọng trong sự di chuyển của tinh trùng. Nhờ sự sắp xếp theo hình nan hoa này mà tinh trùng có thể chuyển động thẳng về phía trước.
Hai tinh hoàn của đàn ông trẻ có khả năng sản sinh khoảng 120 triệu tinh trùng mỗi ngày. Một lượng nhỏ được giữ trong mào tinh hoàn nhưng phần lớn tinh trùng được dự trữ ở ống dẫn tinh. Tại nơi dự trữ của chúng có thể duy trì khả năng thụ tinh trong khoảng 1 tháng. Ngược lại nếu hoạt động tình dục quá mức thời gian dự trữ không quá vài ngày.
Màu sắc của tinh trùng: Tinh trùng thường khó nhận biết được màu cụ thể, tinh dịch khi xuất ra đem theo hàng triệu tinh trùng thường có màu trắng đục và sau đó hóa lỏng sau 20 phút.
Mùi vị của tinh trùng:
Tinh trùng có thể sống trong bao lâu?
Tinh trùng là tế bào sinh sản của nam giới, nó kết hợp với tế bào trứng để tạo thành hợp tử. Tuy nhiên, chỉ có 1 tinh trùng khoẻ nhất mới có thể kết hợp với trứng và thụ tinh.
Tinh trùng quyết định giới tính của con là trái hay gái, bởi tế bào trứng luôn mang nhiễm sắc thể X, trong khi đó tinh trùng có thể mang nhiễm sắc thể X hoặc Y. Khi nhiễm sắc thể X của tinh trùng kết hợp với trứng thì thai nhi là con gái (XX), còn khi nhiễm sắc thể Y của tinh trùng kết hợp với trừng thì thai nhi là con trai (XY).